sgx

Nhan sắc khả ái của ca sĩ Băng Châu qua bộ sưu tập ảnh đẹp trước và sau 1975

Vào đầu thập niên 1970, làng văn nghệ Sài Gòn có sự xuất hiện của một khuôn mặt rất trẻ, vẫn còn mang dáng dấp một nữ sinh với những nét đẹp tươi tắn, nhu mì, rạng rỡ nhưng vẫn còn phảng phất hương lúa ngọt ngào của miền Tây trù phú. Đó là nữ ca sĩ Băng Châu, đồng thời cũng là diễn viên điện ảnh và kịch nghệ nổi tiếng.

Ca sĩ Băng Châu tên thật là Nguyễn Thị Xuân Mai, sinh ngày 1/8/1950. Nghệ danh Băng Châu được chính cô đặt khi mới chập chững vào nghề. Cô vốn học ban văn chương nên muốn đặt một cái tên thật ý nghĩa, và theo cô cho biết, Băng Châu có nghĩa là một “viên ngọc lạnh”.

Hai bên nội ngoại của ca sĩ Băng Châu đều là người gốc ở Trà Ôn thuộc Cần Thơ, năm 1945 cha mẹ cô chạy loạn đến Bà Rịa và sinh 4 người con tại đây. Gia đình Băng Châu có đến 10 anh chị em, trong đó cô là chị gái đầu, bên trên còn có 2 anh trai. Đến năm cô bé Xuân Mai được 5 tuổi thì cả nhà chuyển về lại Trà Ôn để sinh sống, lúc này thuộc tỉnh Phong Dinh. Đến năm 11 tuổi (1961), ca sĩ Băng Châu được đưa lên “Tây đô” – Cần Thơ để tiếp tục học tập.

Từ nhỏ Băng Châu đã rất thích ca hát, và theo học đàn (môn năng khiếu) ở trường từ khi học đệ thất. Sau đó ở cô tham gia những chương trình “người em gái hậu phương” và hát cho chiến sĩ nghe, cũng từ đó Băng Châu có may mắn được gặp gỡ những nghệ sĩ nổi tiếng trong làng nhạc.


Click để nghe nhạc Băng Châu trước 1975

Thời gian này, các đoàn văn nghệ cũng thường xuyên đến Cần Thơ, như ban Hoa Tình Thương, Biệt đoàn Văn Nghệ Trung Ương… Trong những buổi giao lưu văn nghệ, Băng Châu có cơ duyên được gặp một ca sĩ trong Biệt đoàn văn nghệ là Tuyết Nhung, cũng là vợ của nhạc sĩ Nguyên Thảo. Ca sĩ Tuyết Nhung thấy được tiềm năng của Băng Châu nên đã gợi ý lên Sài Gòn để phát huy được hết khả năng ca hát.

Năm 1969, vì quá đam mê ca hát, Băng Châu bỏ học lên Sài Gòn để tìm kiếm cơ hội cho sự nghiệp. Ca sĩ Tuyết Nhung đã dẫn cô đến gặp các nhạc sĩ tên tuổi trong Biệt đoàn văn nghệ, trong đó có 3 nhạc sĩ Duy Khánh, Khánh Băng và Châu Kỳ, cũng là 3 nhạc sĩ đầu tiên đã nâng đỡ Băng Châu trong những bước đầu của sự nghiệp.

Người đầu tiên giúp đỡ Băng Châu chính là ca nhạc sĩ Duy Khánh, cũng là người thầy đã nâng đỡ cô rất nhiều. Sau đó gương mặt khả ái của Băng Châu cũng lần đầu được xuất hiện trước khán giả qua chương trình truyền hình Tiếng Thùy Dương của nhạc sĩ Châu Kỳ sau khi thu dĩa ca khúc đầu tiên là Nhớ Nhau Hoài, từ đó giọng hát Băng Châu bắt đầu ghi được dấu ấn trong lòng khán giả.


Click để nghe Băng Châu hát Nhớ Nhau Hoài trước 1975

Nhưng phải đến một thời gian sau, với bài hát Qua Cơn Mê thu trong băng nhạc Trường Sơn của nhạc sĩ Duy Khánh thực hiện, tên tuổi của Băng Châu mới được chắp cánh để trở thành một ngôi sao sáng trong làng nhạc miền Nam vào đầu thập niên 1970. Đã 50 năm qua, tên tuổi của Băng Châu vẫn được người ta nhớ đến nhiều nhất với bài hát này.

Thực ra người thu âm bài này đầu tiên là Duy Khánh trong đĩa nhựa, sau đó Băng Châu thu âm lại vào băng cối, và từ đó Qua Cơn Mê với tiếng hát Băng Châu đã trở thành một hiện tượng trên khắp miền Nam, được phát gần như suốt cả ngày trên các đài phát thanh ở Sài Gòn. Thời điểm đó đang diễn ra hoà đàm Ba Lê, và bài hát này thể hiện những khát vọng lớn lao về hoà bình, đúng với tâm trạng chung của hầu hết những quân – dân miền Nam lúc đó.


Click để nghe Băng Châu hát Qua Cơn Mê trước 1975

Giữa Băng Châu và Duy Khánh không đơn thuần là thầy trò mà còn nảy sinh tình cảm với nhau, ca sĩ Băng Châu thừa nhận rằng nhạc sĩ Duy Khánh đã sáng tác ca khúc Đêm Bơ Vơ để nói về chuyện tình đó. Ngoài ra, nhạc sĩ Nhật Ngân cũng chứng kiến mối tình và sáng tác ca khúc Lời Đắng Cho Cuộc Tình để nói lên tâm trạng của Duy Khánh thời điểm đó.

Nổi tiếng trong làng nhạc Sài Gòn không lâu, Băng Châu nhanh chóng bước chân vào lĩnh vực điện ảnh. Sau khi được xuất hiện trên truyền hình trong chương trình Tiếng Thùy Dương, gương mặt xinh xắn và thuần khiết của cô đã nhanh chóng được lọt vào mắt xanh của đạo diễn Lê Dân, và Băng Châu được đạo diễn mời đóng vai chính Trần Thị Diễm Châu trong bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết Châu Kool của nhà văn Duyên Anh.

Khi đạo diễn Lê Dân tìm dương mặt nữ chính cho phim này, ông đã đi tìm rất nhiều trong các nữ nghệ sĩ cải lương, các nữ minh tinh màn bạc, các nữ ca sĩ để tìm một người có thể đóng được một nhân vật đa diện, từ một thiếu nữ ngây thơ, đến một người đàn bà bụi đời giống như nhân vật Trần Thị Diễm Châu có biệt danh là Châu Kool trong tiểu thuyết.

Đóng cùng Nguyễn Chánh Tín trong phim Vĩnh Biệt Tình Hè

Sau này, đạo diễn Lê Dân kể lại là Băng Châu đã hoàn thành xuất sắc vai diễn đầu tiên trong sự nghiệp. Cô là hiện thân pha trộn của ba mẫu người khác nhau. Khi đóng vai Diễm Châu nữ sinh, cô có vẻ ngây thơ trong sáng và hành xử rất hồn nhiên. Khi đóng vai Diễm Châu thiếu phụ đa tình, cô thể hiện được mẫu người tình tứ thập phần gợi cảm. Khi đóng vai Diễm Châu nữ chúa, cô thể hiện được vẻ dữ dằn sắt đá.

Bộ phim “Trần Thị Diễm Châu” vừa trình chiếu ở Sài Gòn thì tên tuổi của Băng Châu ngay lập tức tạo được một dấu ấn lớn đối trong giới trẻ đô thành. Từ thành công đầu tiên với lãnh vực điện ảnh này, Băng Châu được mời xuất hiện trong nhiều phim khác như Vĩnh Biệt Tình Hè, Trường Tôi, Bốn Thủy Thủ Sợ Ma, Năm Vua Hề Về Làng…

Băng Châu cho biết cô rất thích đi du lịch, nhưng vì là con gái nên không có nhiều điền kiện để đi nhiều, chính nhờ đi hát, và đặt biệt là tham gia đóng phim mà cô được đi rất nhiều nơi đúng với niềm mơ ước từ lúc nhỏ của mình.

Sau năm 1975, ca sĩ Băng Châu tiếp tục sinh hoạt âm nhạc, đóng phim, đến tháng 9 năm 1979 thì cô sang Mỹ định cư ở bang Utah, được vài tháng sau thì chuyển về Cali, cộng tác với nhiều trung tâm băng đĩa hải ngoại.

Ngoài ca hát, Băng Châu còn là một MC, xướng ngôn viên truyền hình và truyền thanh được yêu thích ở hải ngoại.

Băng Châu năm 2016

Mời các bạn xem lại sắc đẹp khả ái của nữ ca sĩ Băng Châu qua thời gian.

Hình trước năm 1975 – Một thời xuân sắc:

Băng Châu là học trò của nhạc sĩ Duy Khánh, tác giả của những cuốn băng Trường Sơn nổi tiếng. Đây là hình bìa của băng Trường Sơn 1 – Hát Giữa Quê Hương

Bên cạnh Băng Châu là nghệ sĩ Tùng Lâm

Diễn xuất cùng Nguyễn Chánh Tín trong phim Vĩnh Biệt Tình Hè

Diễn xuất cùng Nguyễn Chánh Tín trong phim Vĩnh Biệt Tình Hè

Băng Châu và đoàn làm phim Vĩnh Biệt Tình Hè

Băng Châu vào vai nhân vật Châu Kool trong phim Trần Thị Diễm Châu, một vai diễn có tính cách đa dạng

Băng Châu và diễn viên Hoài Mỹ

Hình ảnh sau năm 1975

Băng Châu ở trại tị nạn

Băng Châu ở trại tị nạn

Băng Châu ở trại tị nạn

Băng Châu và con gái, khi vừa qua Mỹ được vài tháng

Băng Châu và nữ nhạc sĩ Khúc Lan

Băng Châu và Phương Hồng Quế

Băng Châu và nữ tài tử Lệ Hoa năm 1980

Hình ảnh trên bìa băng đĩa nhạc ở hải ngoại:


Về giọng hát của Băng Châu, nhà Văn Hồ Trường An đã mô tả như sau:

“Giọng hát Băng Châu mềm mại ngọt ngào. Cô được cái ưu điểm là dàn trải làn hơi đâu ra đó. Tiếng hát của Băng Châu là tiếng hát buồn man mác của người cô phụ đêm đêm chong đèn ngồi bên song cửa nhìn bóng trăng tà ngoài song và đối diện với ngọn hàn đăng trong cô phòng.

Tiếng hát cô lúc buồn theo mùi hương nguyệt quế ngào ngạt tỏa ra chung quanh khuôn viên của căn nhà kia, từ lúc đèn đêm thắp sáng cho tới lúc cửa sổ khép kín và ánh đèn trong hương khuê phụt tắt. Đó là lúc hương cau, hương bưởi và hương dạ lý thay nhau lan tỏa trong sương khuya và trong những cơn gió mỏng hiu hiu. Những mùi hương ấy ở chốn cùng thôn tuyệt tái thì ngoài nàng ra không có ai thưởng thức chúng, cho nên đó cũng chỉ là những thứ hương bị quên lãng và bị nhốt chung một phận buồn như nàng”.

Sau đây là những bài hát đã làm nên tên tuổi Băng Châu trước năm 1975:

Nhớ Nhau Hoài

Ca khúc của nhạc sĩ Anh Việt Thu phổ thơ Thiên Hà này là ca khúc đầu tiên mà Băng Châu thu thanh vào dĩa nhựa. Ngay sau đó, cô được nhạc sĩ Châu Kỳ mời xuất hiện trên chương trình Tiếng Thùy Dương phát trên đài truyền hình để hát chính ca khúc này, để rồi từ đó, khuôn mặt khả ái cùng giọng hát nhẹ nhàng của cô đã được xuất hiện lần đầu và chinh phục được các tầng lớp khán giả yêu nhạc vàng thập niên 1970.


Click để nghe Nhớ Nhau Hoài

Qua Cơn Mê

Nếu như Nhớ Nhau Hoài là ca khúc giới thiệu được tên tuổi Băng Châu với công chúng, thì Qua Cơn Mê là ca khúc đưa tên tuổi của cô vút cao trong làng nhạc. Bản thu này được “thầy Duy Khánh” giới thiệu trong băng nhạc Trường Sơn trước năm 1975, để rồi từ đó ca khúc này đóng dấu vào tên tuổi Băng Châu suốt gần 50 năm qua.


Click để nghe Qua Cơn Mê

Thực ra người thu âm bài này đầu tiên là Duy Khánh trong đĩa nhựa, sau đó Băng Châu thu âm lại vào băng cối, và từ đó Qua Cơn Mê với tiếng hát Băng Châu đã trở thành một hiện tượng trên khắp miền Nam, được phát gần như suốt cả ngày trên các đài phát thanh ở Sài Gòn. Thời điểm đó đang diễn ra hoà đàm Ba Lê, và bài hát này thể hiện những khát vọng lớn lao về hoà bình, đúng với tâm trạng chung của hầu hết những quân – dân miền Nam lúc đó.

Viết Thư Tình

Bài hát rất hay này của nhạc sĩ Trúc Phương còn có tên khác là Thư Gửi Người Miền Xa, là một trong những bài nhạc lính được yêu thích nhất.

Bài hát này được Trúc Ly thu thanh đầu tiên trong dĩa nhựa, nhưng bản thu của Băng Châu trong băng cối Trường Sơn vào thập niên 1970 mới được biết đến nhiều hơn và đến nay vẫn được nhiều người tìm nghe.


Click để nghe Viết Thư Tình

Chiều Thương Đô Thị

Ca khúc nổi tiếng của 2 nhạc sĩ Song Ngọc và Hoài Linh cùng hợp soạn này đã được rất nhiều ca sĩ hát. Giữa rất nhiều phiên bản khác nhau, bản thu của Băng Châu trước năm 1975 vẫn được nhiều người yêu thích.

Chiều Thương Đô Thị được sáng tác từ năm 1961, nhạc sĩ Song Ngọc viết phần nhạc và Hoài Linh viết lời, có nội dung là một người bạn (Hoài Linh) đưa tiễn một người lính trẻ (Song Ngọc) lên đường tòng chinh.

Thời điểm này nhạc sĩ Hoài Linh là cảnh sát thuộc Nha cảnh sát quốc gia, ở lại Sài Gòn làm việc, còn nhạc sĩ Song Ngọc đi vào quân trường Thủ Đức và được huấn luyện gian khổ ở nơi xa đô thành.


Click để nghe Chiều Thương Đô Thị

“Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng:
Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư
Không tan theo cùng hư vô
Không theo tháng năm phai mờ
Tình nào tha thiết anh ơi?”

Đêm Trao Kỷ Niệm

Nhiều người không biết rằng ca khúc rất tình cảm này là một sáng tác nổi tiếng của cố nghệ sĩ Hùng Cường, 1 trong tứ trụ nhạc vàng. Sau năm 1975, bài hát rất nổi tiếng với đôi song ca Duy Khánh – Hương Lan. Còn trước năm 1975, Băng Châu đã ghi dấu ấn với ca khúc này:


Click để nghe Đêm Trao Kỷ Niệm

Lời Của Mẹ

Ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng và Tấn An này còn có tên khác là Rồi 20 Năm Sau, được hầu hết các nữ ca sĩ danh tiếng nhất của nhạc vàng hát. Tuy nhiên Băng Châu – với thế mạnh là một người miền Tây, có giọng hát ngọt ngào rất phù hợp với bài hát có điệu ru hời này.


Click để nghe Lời Của Mẹ

Nhật Ký Hai Đứa Mình

Giọng hát của Băng Châu cũng được yêu thích với ca khúc của nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác:


Click để nghe Nhật Ký 2 Đứa Mình

Băng Châu là học trò của ca nhạc sĩ Duy Khánh, được đích thân danh ca huyền thoại, cũng là một nhà sản xuất âm nhạc danh tiếng này giúp đỡ và lăng xê, đặc biệt là với những bài hát do chính Duy Khánh sáng tác như Sao Không Thấy Anh Về, Mùa Chia Tay, Trường Cũ Tình Xưa…


Click để nghe Sao Không Thấy Anh Về


Click để nghe Mùa Chia Tay


Click để nghe Trường Cũ Tình Xưa

Mời bạn nghe thêm video 30 bài hát hay nhất của Băng Châu thu âm trước 1975 sau đây:


Click để nghe

Đông Kha – chuyenxua.net

Viết một bình luận


Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước sinh năm 1915, là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho tân nhạc Việt từ thập niên 1930, và danh ca Minh Trang, người bạn đời của ông trong gần 30 năm cũng là một trong những ca sĩ tiên phong hát tân nhạc. Họ trở thành cặp đôi nghệ sĩ nổi tiếng của làng văn nghệ ở Sài Gòn trước năm 1975.

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và danh ca Minh Trang, một người Hà Nội, một người sinh trưởng ở Huế, nhưng đều xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc chốn quan quyền và xây lập được hạnh phúc trên đất Sài Gòn.

Dương Thiệu Tước sinh quán ở Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), được xuất thân trong gia đình Nho học truyền thống. Ông là cháu nội của cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định, là bạn đồng khoa thân thiết với Nguyễn Khuyến. Khi ông Dương Khuê mất, cụ Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến đã viết bài Khóc Dương Khuê để thương tiếc.

Thân sinh Dương Thiệu Tước là ông Dương Tự Nhu làm bố chính tỉnh Hưng Yên.

Danh ca Minh Trang tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1921 tại Bến Ngự, là con gái của quan Tổng đốc Bình Định Nguyễn Hy (sau này ông còn làm Tổng đốc Thanh Hóa, rồi Thượng thư Bộ Hình). Minh Trang còn là cháu ngoại của công chúa Mỹ Lương (còn gọi là Bà Chúa Nhứt) – chị ruột vua Thành Thái.

Tuy là công chúa nhưng Bà Chúa Nhứt có tính rất nghệ sĩ, trong nhà có hẳn một ban hát tới mấy chục người và có riêng một ban ca Huế. Ca sĩ Minh Trang – cháu ngoại của công chúa, từ nhỏ ít gần gũi cha vì ông phải đáo nhậm những nhiệm sở xa, nên Minh Trang có dịp được gần gũi với bên ngoại. Nhờ những âm thanh ca Huế thấm nhuần vào tâm hồn trong tuổi ấu thơ, mới bảy tám tuổi, bà đã thuộc những bài cổ nhạc, ca Huế như những khúc Nam Ai, Nam Bình, Kim Tiền, Lưu Thủy…

Năm 21 tuổi Minh Trang tốt nghiệp Tú Tài toàn phần của Pháp vào thời điểm hiếm có phụ nữ nào đỗ đạt được như vậy.

Người chồng đầu của Minh Trang là cụ Ưng Quả, là cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh em của vua Thiệu Trị. Nhà giáo Ưng Quả là học giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các đại học thời độc lập. Ưng Quả từng là Thái Tử Thiếu Bảo khi dạy học Thái Tử Bảo Long, là Hiệu trưởng trường Quốc Học tại Huế, giám đốc Nha Học Chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt Nam Pháp ngữ… Ngoài ra, cụ còn là người thẩm âm sành nhạc và gẩy đàn nguyệt khi tiêu khiển.

Cưới nhau được 3 năm, Minh Trang và Ưng Quả có 2 người con là Bửu Minh và Đoan Trang (tức ca sĩ Quỳnh Giao). Khi hát cho đài Pháp Á, Danh ca Minh Trang đã ghép 2 tên người con để làm nghệ danh cho mình.

Danh ca Minh Trang và 2 người con Bửu Minh – Đoan Trang

Vì tình hình đất nước loạn lạc từ năm 1946, những giáo chức như cụ Ưng Quả phải chạy ra vùng Việt Minh, họ xa nhau từ đó, ban đầu là tạm thời, về sau là mãi mãi, khi cụ Ưng Quả qua đời vì bệnh tật.

Minh Trang mang 2 con vào Sài Gòn, quyết tâm tự lập và xin được vào làm xướng ngôn viên và biên tập cho đài phát thanh Pháp Á, rồi sau đó trở thành ca sĩ của đài, nổi tiếng khắp 3 miền từ làn sóng phát thanh và có hát nhiều bài của Dương Thiệu Tước, đặc biệt là Đêm Tàn Bến Ngự.

Từ Hà Nội, Dương Thiệu Tước rất thích giọng hát Minh Trang nên sáng tác được bài nào đều gửi cho Minh Trang ở Sài Gòn.

Ca khúc Đêm Tàn Bến Ngự như là một mối duyên đầu tiên của chuyện tình Dương Thiệu Tước và Minh Trang.

Khi sáng tác bài hát này, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đang lênh đênh sông Hương và Bến Ngự, để rồi tức cảnh sinh tình mà viết thành ca khúc, nhưng mở đầu bài hát lại là nỗi lòng của một người đang ở cách xa Huế với tình lưu luyến trào dâng, chỉ có thể gửi gắm niềm thương nhớ non nước Hương Bình thông qua “Ai về bến Ngự”.

Hàng cây soi bóng nước Hương,
Thuyền xa đậu bến Tiêu Tương
Lưu luyến thay phút say hương dịu buồn.
Nhưng thoảng nghe khúc ca Nam Bình sầu than
Như nức nở khóc duyên bẽ bàng…

Thấp thoáng trăng mờ
Ai than ai thở đời vui chi trong sương gió.
Ai nhớ thương ai
Đây lúc đêm tàn tình đã lạt phai…

Thuyền ơi đưa ta tới đâu
Tìm trăng, trăng khuất đã lâu,
Sương xuống trên bến cô liêu, thêm sầu.
Bèo nước gió mây đêm ngắn tình dài.
Có ai nhớ, ai nơi giang đầu…


Click để nghe Minh Trang hát Đêm Tàn Bến Ngự

Bài hát đã gần như mượn hết những cặp hình ảnh mô tả tình yêu đôi lứa trong ca dao Việt Nam : thuyền – bến, gió – trăng, bèo – nước… Mượn hình bóng để viết thành lời ca ai oán, nức nở và than thở cho một mối tình bẽ bàng.

Khi sáng tác Đêm Tàn Bến Ngự, nhạc sĩ chưa quen biết với Minh Trang, nhưng thật trùng hợp, Minh Trang được sinh ra ở ngay trên Bến Ngự, và sau này là người đầu tiên trình bày thành công ca khúc này.

Lúc sinh thời, Minh Trang kể lại:

“Anh Tước viết bài đó sau hai tháng trời sống dưới đò trên sông Hương, nghe ca Huế. Viết xong anh gửi cho Minh Đỗ, nhưng nhạc miền Trung có một cái nét đặc thù của nó mà Minh Đỗ không quen hát, nên không hát. Sau đó anh gửi cho tôi.

Mỗi ca sĩ có một cách hát, nhưng riêng bài Đêm Tàn Bến Ngự, có thể nói là tôi hát một cách tự nhiên, vì từ nhỏ tôi đã đàn tranh, đã hát Kim Tiền – Lưu Thủy rồi, nên khi cầm bản Đêm Tàn Bến Ngự lên đọc qua đã thấy quen thuộc. Những chỗ láy cho ra Huế, nó đến với tôi một cách tự nhiên, không một chút cố gắng nào cả. Tuy tôi nói giọng Quảng nhưng vì ca Huế nó nằm sẵn trong huyết quản mình…”

Năm 1949, Dương Thiệu Tước mới lần đầu được gặp mặt nữ danh ca Minh Trang. Khi đó Thủ hiến Bắc kỳ là Nguyễn Hữu Trí vì mến mộ giọng hát Minh Trang nên đã mời bà từ Sài Gòn ra Hà Nội dự Hội chợ đấu xảo. Đây là dịp để các nhạc sĩ hào hoa xứ Bắc được chiêm ngưỡng nhan sắc của một giai nhân ở trời Nam. Tuy đã có hai con nhưng Minh Trang lúc ấy vẫn giữ được một vẻ đẹp quý phái làm say đắm nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.

Sau này Minh Trang kể lại: “Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn… rối rít, ông ấy (Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Trước khi gặp gỡ, tôi đã từng hát nhạc của ông ấy nên tôi cũng rất ao ước được gặp mặt con người tài hoa này.

Sau đó tôi về Sài Gòn, chúng tôi thư từ cho nhau, thấy hợp, rồi thành.

Khi tôi mới vào lại Sài Gòn, vì nhớ tôi mà anh Tước viết bài Sóng Lòng. Dạo ấy anh còn sáng tác Ngọc Lan là để tặng riêng cho tôi. Tuy đó là tên một loài hoa, nhưng người ta có thể thấy được trong lời ca là mô tả người thiếu nữ…”

Nếu nhìn lại tờ nhạc bản gốc của Nhà xuất bản Tinh Hoa (1953) sẽ thấy tất cả những chữ Ngọc Lan trong bài hát đều được viết hoa:

Ngọc Lan
giòng suối tơ vương
mắt thu hồ dịu ánh vàng…

Theo ca sĩ Quỳnh Giao (con gái của Minh Trang), thì Dương thiệu Tước viết bài Ngọc Lan tại đất thần kinh năm 1953, khi cùng Minh Trang về Huế thăm đại gia đình đã xa cách lâu ngày.

Bài hát tả đóa hoa để nói về tình yêu thanh khiết. Chỉ cần nghe phần nhạc có hòa âm công phu của bài này, người nghe đã cảm nhận được nét đẹp lả lướt mà không lả lơi, phóng khoáng mà không phóng túng, giai điệu cũng rất trang trọng, quý phái. Trước vẻ đẹp của hoa, người nghệ sĩ chỉ có thể trầm trồ:

Ngọc Lan
nhành liễu nghiêng nghiêng
tà mấy cánh phong
nắng thơm ngoài song.

Nét thắm tô bóng chiều,
giấc xuân yêu kiều,
nền gấm cô liêu.

Gió rung mờ suối biếc,
ý thơ phiêu diêu!


Click để nghe Lệ Thu hát Ngọc Lan trước 1975

Phần đầu tha thiết dịu dàng mở ra như một đóa hoa ngọc lan mới nở và phả ra hương thơm ngoài hiên nắng. Từ cánh hoa trắng muốt như bạch ngọc, nhạc sĩ chuyển qua phần hai, ngợi ca cả thanh lẫn sắc. Hóa ra hoa đó là người, và là người rất đẹp. Hình dáng người được mô tả là “ngón tơ mềm”, “dáng tiên nga”, và thanh âm của người tiên nga đó được mô tả là “giọng ướp men thơ” và “trầm ngát thu hương”… toàn là những mỹ từ ngây ngất thường chỉ được thấy trong văn thơ hoặc một số bài nhạc tiền chiến.

Ngón tơ mềm chờ phím ngân trùng,
mạch tương lai láng.
Dáng tiên nga giấc mơ nghê thường lỡ làng.

Ngọc Lan giọng ướp men thơ,
mát êm làng lụa bóng là.

Ngọc Lan trầm ngát thu hương.
Bờ xanh bóng dương phút giây chìm sương.

Bông hoa đời ngàn xưa tới nay.
Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây…

Sau năm 1975, cuộc sống của gia đình Dương Thiệu Tước, Minh Trang gặp rất nhiều khó khăn. Nhạc của ông bị cấm hoàn toàn, ông cũng không còn được cho đi dạy nhạc ở trường Quốc Gia Âm Nhạc nữa, cuộc sống trở nên túng quẫn. Năm 1978, Minh Trang dẫn các con sang Thái Lan rồi qua Mỹ, Dương Thiệu Tước ở lại cho đến khi qua đời năm 1995.

Sau này Minh Trang kể lại:

Anh Tước và tôi rất hợp, sống với nhau gần 30 năm trời, không có sóng gió gì cả. Anh Dương Thiệu Tước hiền lành lắm, timide (nhát) nữa là khác. Đương nhiên, anh có một tâm hồn rất nghệ sĩ, do đó anh cũng có bay bướm, nhưng mà tôi chấp nhận…

Trong bài báo được đăng tải vào khoảng đầu thập niên 1960 sau đây, chúng ta sẽ được nghe kể lại câu chuyện tình nổi tiếng của Dương Thiệu Tước và Minh Trang qua bài viết của nhà văn Mai Thảo sau đây:

Tư liệu của Leminh Saigon

[…]

Đó là một mối tình cực kỳ thơ mộng. Nó phảng phất cái cốt cách Tố Tâm, thấp thoáng cái không khí Tuyết Hồng Lệ Sử. Đó là sự chắp nối kỳ diệu của hai “lỡ một đường tơ” thành một chuyện điệu đàn. Đó là những nắng nắng mưa mưa, những gió gió bão bão, những chìm chìm nổi nổi của hai cuộc đời, nếu riêng biệt, có thể sẽ cô đơn và buồn thảm ngần nào, nhưng hợp lại, nắng đã lên, mùa xuân đã về, và hạnh phúc đã lại.

Mối tình đó, mối tình Minh Trang – Dương Thiệu Tước xứng đáng được mệnh danh là mối tình của Âm Nhạc và Làn Sóng Điện. Một Âm Nhạc làm bà mai. Và một Làn Sóng Điện làm gã đưa thư.

Bởi vì họ gặp nhau bằng tiếng hát
Bởi vì họ yêu nhau qua không gian.

Nàng ra đời trên bến Ngự. Tuổi nhỏ nghiêng khuôn mặt hiền từ xuống con sông Hương nghìn đời êm ả. Một tuổi nhỏ được ru trong những điệu hát cổ truyền. Chính tuổi nhỏ này làm nên Minh Trang ca sĩ. Bà ngoại nàng là bà Chúa Nhất, cô ruột của Cựu Hoàng ăn chơi. Cháu hoàng đế nào, cô Chúa Nhất thế. Cũng ăn chơi đến điều. Tóc đã bạc, da đã mồi, mà tâm hôn thật trẻ, nên bà Chúa Nhất ăn chơi đã chọn cho cái tuổi xế chiều được tắm đẫm trong âm thanh, trong đàn địch. Trong nhà bà, lúc nào cũng có mấy chục “con ca” suốt ngày múa hát, tập dượt. Minh Trang được bà chiều cho ngồi trên đùi gối, rồi bà già dậm chân gõ nhịp và cháu cũng nghiêng đầu ca hát theo. Thế cho nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Minh Trang mới 6 tuổi, còn nhảy nhót đùa nghịch như một đứa con trai, mà đã am tường thấu đáo thế nào là hát Bội, ca Huế, thế nào là múa bài bông, Lưu Thủy, Kim Tiền. Những điệu múa, những ca khúc cổ vũ làm nên cái linh hồn xứ Huế ấy đi theo Minh Trang khi lớn lên, nàng theo cha qua hầu hết các thị trấn miền Trung, người thiếu nữ dòng dõi quyền quý này thời kỳ đến sống trong dinh Tổng Đốc Thanh Hoa đã vừa tròn mười tám tuổi. Bấy giờ Minh Trang đã hát, hát thật giỏi, thật vững. Từ Huế, nàng bay thẳng vào Sài Gòn, biến thành người nữ ca sĩ trụ cột của Đài phát thanh Pháp Á.

Tiếng hát truyền đi trên Làn Sóng Điện, qua núi sông, qua không gian, vượt Hải Vân, qua Lăng Tẩm, tới địa đầu đất Bắc, nó xuống thấp như một cánh bướm, tìm đường, nó từ miền Trong bay tới miền Ngoài, nó từ Sài Gòn bay tới Hà Nội. Và lọt đến tai chàng. Thế là sự gặp gỡ định mệnh. Sự gặp gỡ tình cờ chỉ từ một dư âm tiếng hát mong manh mà bền vững đời đời đời kiếp kiếp: Con sống Hương Minh Trang gặp con sông Đáy Dương Thiệu Tước.

Có điều là nàng hát rồi, tiếng hát của nàng đã được mến yêu, nhưng chàng còn là một soạn giả trẻ tuổi, chưa có một vốn liếng nào hơn là một tâm hồn nghệ sĩ chứa đầy tham vọng. Hà Nội bấy giờ là một Hà Nội chưa có soạn giả, chưa có âm nhạc. Một Hà Nội lãng mạn kiểu Lamarline, như một hiện tượng quá mùa. Một Hà Nội lố lố lăng lăng chạy theo phong trào vui vẻ trẻ trung, tôn thờ Tino Rossi như thần tượng, mê Greta Garbo như tuổi trẻ mê Liz Taylor bây giờ. Thanh niên Hà Nội hát Tây ông ổng, và chàng Dương Thiệu Tước bực mình lắm. Một đêm, đứng ngắm cái tháp Rùa trầm tư mặc tưởng giữa Hồ Gươm, một câu hỏi bỗng vang lên: Tại sao không có nhạc mới Việt Nam, những bản nhạc của những soạn giả Việt Nam? Nghĩ và làm. Bực mình và thực hiện. Cùng với mấy bạn Văn Chung, Lê Thương… Dương Thiệu Tước dùng tất cả sức say mê của mình, ném vào vùng nhạc Việt im lìm hoang vu như một mảnh đất chưa khai thác những âm thanh mở đường thứ nhất. Ban nhạc Myosotis như một hoạt động khai sinh cho loại nhạc cải cách, mang trong nó tham vọng lớn lao đổi thay thị hiếu một thời, ra chào đời giữa phố phường Hà Nội. Nó bị công kích dữ dội. Nhưng giá có bị công kích dữ dội gấp nghìn lần như thế, Tước cũng tiếp tục. Bởi vì lúc đó chàng sống say mê với lý tưởng. Bởi vì lúc đó chàng sống say mê với tình yêu.

Tình yêu mang hình trừu tượng của một âm thanh. Tiếng hát nghìn trùng xa cách ở đầu bên này Làn Sóng Điện, lọt đến tai chàng. Chàng ôm mối tình âm thanh trong lòng, mang chung cái tâm trạng Mỵ Nương chỉ thấy tiếng mà chưa thấy hình Trương Chi, nhưng chàng sống, sống hết mình với nó. Những bài hát hay nhất của Dương Thiệu Tước được hoàn thành trong thời kỳ này. Ngợi ca quê hương nàng, chàng làm Đêm Tàn Bến Ngự. Bản Sóng Lòng để nói lên cái biển tình đêm ngày dào dạt. Bản Ngọc Lan vì nhớ người xa như nhớ một mùi hương. Rồi là Buồn Xa Vắng, Bóng Chiều Xưa, Một Chiều Xuân… Đến bản Ước Hẹn Chiều Thu, thì đúng là một chiều Thu heo may mưa phùn Trang ra Hà Nội.

Thì ra âm nhạc có hồn. Thì ra âm nhạc thần giao cách cảm. Hai con thuyền cùng gió bão lênh đênh tự đó cắm neo trong cái bến nhạc, cột chặt số kiếp, lật ngược thời gian, biến mối tình cuối cùng thành mối tình thứ nhất. Sau lần hội ngộ ở nhà riêng của Tước trong Ngõ Hàng Kèn, Minh Trang vì bấy giờ đã vừa là ca sĩ vừa là nhân viên của đài phái đi công cán, phải trở lại Sài Gòn.

Tới 1951, Dương Thiệu Tước vào Nam. Một hôn lễ được cử hành ở Tòa Thị Chính. Một tiệc cưới được tổ chức ở nhà hàng Nguyễn Văn Đắc. Thời đại đổi khác. Thần thoại cũ không trở lại làm thảm kịch của người. Không có chuyện mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan, mà chỉ có cái chuyện Dương Thiệu Tước yêu mà chưa gặp, giờ gặp mà vẫn yêu. Còn có triền núi Hoành Sơn nào, con sông Cửu Long nào cản được? Thế là con sống Hương lấy con sông Đáy. Cháu bà Chúa Nhất lấy cháu cụ nghè Dương Khuê. Thế là hai đơn âm lẻ loi hợp thành một bản hòa tầu. Dương Thiệu Tước và Minh Trang lấy nhau. Bà mai Làn Sóng Điện xoa tay mỉm cười. Cái duyên âm nhạc đã thành cái duyên cầm sắt.

Bao nhiêu năm qua, khuôn mặt hạnh phúc vẫn trẻ. Nhưng họ đã già. Chàng: mái đầu đã điểm những sợi bạc. Nàng: đã là mẹ của bảy đứa con. Những nhu cầu sinh kế càng ngày càng tăng, đòi hỏi cả hai phải làm việc cật lực. Tác giả của 200 bản nhạc trong số đã có trên 100 bản được phổ biến. Dương Thiệu Tước vẫn chưa có quyền “dưỡng lão”. Hiện làm giáo sư tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Hiện làm trường ban hai ban nhạc trên Đài Quốc Gia. Hiện đã 50 tuổi. Không lãng mạn không sôi nổi như thuở nào nữa. Mà hiền, chậm chạp, lặng lẽ và ít nói vô cùng. Đôi khi, hồi tưởng lại dĩ vãng cùng tuổi trẻ, chàng lại bảo với nàng là chàng nhớ những đêm trăng sáng trên Hồ Lãng Bạc bơi thuyền, đánh đàn. Nhớ hàng triệu con sóng vàng óng ánh trên mặt hồ tuổi cũ. Nhớ cái hình ảnh của dòng sông Đáy quê hương xanh mướt dưới bóng núi Hương Tích, mà chàng đã gửi vào bản Thuyền Mơ, là bản chàng yêu thích nhất ngoài những bản sáng tác vì nàng.

Còn nàng? Hiện là một người mẹ bốn mươi, không buồn bao giờ, xưa thích ngắm trời thật xanh, giờ thích nghe chiều mưa rơi, hiện làm kiểm duyệt viên Pháp Ngữ của Đài, hát trong hai ban của chồng, ban Hoàng Lan nữa, một hồi còn làm xướng ngôn viên cho rạp Eden, và xuất hiện rất nhiều lần trên sân khấu, được giải thưởng với Chiếc Tàu Thuốc Lá, được ngợi khen với Ngày Mai Trời Lại Sáng, Chúng Nó Ba Thằng…

Từ cuộc tình duyên lãng mạn ngày nào, bảy đứa con đã là bảy chiếc thuyền nhỏ vây quanh thuyền cha thuyền mẹ. Tron số ấy, đứa con trai đầu lòng đã xuất dương sang du học bên Đức. Và đứa thứ nhì, cô nữ ca sĩ Quỳnh Dao mười bảy tuổi, đã có một tiếng hát giống mẹ ở khía cạnh căn bản vững vàng, nhạc lý chắc chắn, là hai yếu tố đắc lực tạo thành một âm thanh điêu luyện.

Ở một bài viết trước tôi đã ghi nhận lại sự khen ngợi của ca sĩ Kim Tước về tiếng hát Quỳnh Dao. Đang ở tuổi vị thành niên mà đã có được chỗ đứng trong các ban Hoàng Trọng, Nguyễn Quý Lãm, ban Hợp Xướng ngoài hai ban của cha Tước không cần nói đến, là vì Quỳnh Dao đã hát từ năm lên tám tuổi. Vừa hát vừa tập đàn, nên tiếng hát chỉ cần nuôi dưỡng cho ấm, cho khỏe, cho lớn, những cái đó chắc chắn sẽ đến với tuổi, với đời, Quỳnh Dao khỏi lo nên ngày ngày đi học chữ về, đi học nhạc xong, là cô nhỏ tâm tính nghịch ngợm như mẹ ấy lại chạy phăng ra đầu ngõ đánh đáo, nhảy dây, cướp cờ, nhất định không chịu để âm nhạc cướp mất cái phần hồn nhiên tuổi trẻ.

Đó, mối tình của Minh Trang Dương Thiệu Tước. Đó, hạnh phúc, gia đình và đời sống của họ. Đó, một Minh Trang đã một nửa đời người, một Dương Thiệu Tước đã đời người một nửa, một Quỳnh Dao mà khuôn mặt, tiếng hát mới đời người có một phần tư, là ba hình ảnh nối kết đằm thắm dưới một mái nhà âm nhạc. Phần đời sôi nổi bỏ lại xa tít trong quá khứ, cặp tài từ thuở xưa đã dệt cho nhau một trong những chiếc áo tình yêu lãng mạn nhất, lãng mạn đến có thể làm thành thơ, phổ thành nhạc, viết thành truyện giờ chỉ còn là một cặp vợ chồng hòa thuận rủ nhau chạy trốn vào bóng mát của một hạnh phúc nghỉ ngơi.

Nửa tháng trước đây, đi qua một ngõ nhỏ yêu tĩnh như một con đường làng ở vùng Tân Sơn Nhất, họ đã dừng lại một căn nhà cổ, nằm nép mình dưới một bụi tre ngà. Lá tre phất nghìn ngón tay. Tiếng dương cầm của một giờ luyện nhạc thánh thót Minh Trang chợt nhớ đến cái Bến Ngự của nàng ở Huế. Dương Thiệu Tước chợt mong một ngày về Hà Nội. Nhưng họ cùng mỉm cười khi nhìn ra đầu ngõ để thấy một Quỳnh Dao đang vun vút nhảy dây trong nắng. Hiện tại ở đó, con cái đã lớn, Làn Sóng Điện làm cho Sông Hương Sông Đáy gặp nhau. Hai con sông lòng bây giờ chảy thành nhiều nhánh nhỏ. Và tiếng sóng còn hát, còn đàn, vẫn trên cái luồng âm thanh tạo thành cuộc tình của họ là Làn Sóng Điện, một làn sóng điện ngày nào đã đóng vai trò của một bà mai, một gã đưa thư cho nàng Minh Trang và chàng Dương Thiệu Tước. (Mai Thảo – Báo Kịch Ảnh) […]

LEAVE A RESPONSE

Your email address will not be published. Required fields are marked *