sgx

Cuộc giải cứu bất thành 2 chiến sĩ bị thiêu sống ở Quảng Trị năm 1972

– 53 năm trôi qua từ ngày cuộc chiến Thành cổ Quảng Trị kết thúc, nhưng với cựu binh Hà Xuân Hòa, ký ức về khoảnh khắc ông giải cứu bất thành 2 đồng đội bị địch thiêu sống là vết thương không thể lành.

Ông Hà Xuân Hòa, năm nay đã 71 tuổi, sống trong căn nhà nhỏ tại thôn Diễn Thành, xã Hợp Thành, huyện Triệu Sơn cũ (nay là xã Hợp Tiến, tỉnh Thanh Hóa).

Mỗi khi nhắc về những ký ức “không ngủ yên” ở Thành cổ Quảng Trị, ông lại bồi hồi xúc động đan xen nỗi day dứt. “Tôi nhớ như in từng trận đánh, nhiều đêm hình ảnh đồng đội cứ ùa về khiến tôi không thể chợp mắt”, ông nói.

Từ cầu thủ bóng đá tài năng đến người lính

Là con cả trong gia đình có 9 anh em, từ nhỏ cậu bé Hà Xuân Hòa đã bộc lộ năng khiếu bóng đá. Năm 1968, khi mới 14 tuổi, thiếu niên Hà Xuân Hòa được tuyển vào Trường Năng khiếu thể thao tỉnh Thanh Hóa. Chỉ sau một năm, chàng trai trẻ đã đạt thành tích vô địch giải cá nhân toàn năng kỹ thuật bóng đá lứa tuổi thanh, thiếu niên toàn miền Bắc. ​

Đến năm 1972, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra khốc liệt, chàng trai trẻ Hà Xuân Hòa gác niềm đam mê, xung phong nhập ngũ. Dù còn thiếu 2 tháng mới đủ tuổi nhập ngũ, nhưng với lòng yêu nước tha thiết, anh đã thuyết phục được ban tuyển quân.

Ngày 15/5/1972, tân binh Hà Xuân Hòa chính thức nhập ngũ, được biên chế vào Tiểu đoàn 685, huấn luyện tại xã Cán Khê, Thanh Hóa.

​“Khi đi, tôi chỉ kịp xin về thông báo với gia đình rồi được bố chuẩn bị cho 7 bánh thuốc lào đem vào chiến trường”, ông Hòa kể. ​

Sau 21 ngày hành quân, đơn vị của ông vượt sông Bến Hải vào đến Quảng Trị, máy bay địch dội bom xối xả khiến 3 người bị thương. Sau đó, họ tiếp tục hành quân vào dốc Chu Nga (bờ bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị), ém quân chờ lệnh.

​Ngày 29/8/1972, cả Tiểu đoàn hành quân vượt dốc Chu Nga. Đứng từ trên cao, ông Hòa bàng hoàng khi nhìn về Thành cổ Quảng Trị. Đó là một chiến trường khốc liệt. Dù ở vòng ngoài, ông vẫn cảm nhận được sức nóng kinh hoàng từ phía trong.

“Ngoài biển Đông, tàu chiến của địch dày đặc, liên tục bắn phá vào Thành cổ và đất liền. Từ cao điểm 105 vòng xuống các đồi Trọc, Gia Long đến Thành cổ, tôi thấy cuộc chiến ác liệt giữa ta và địch đang diễn ra, cảnh tượng như một vòng lửa…

Trong Thành cổ, phía đông nam, nam và tây, địch tổ chức tấn công bằng xe tăng, lính bộ binh và súng phun lửa.

Lực lượng ta cố thủ quyết liệt, súng phòng không 12 ly 7 liên tục bắn máy bay địch, đỏ rực cả bốn góc Thành cổ. Đạn bay ra bay vào không ngớt, chiến trường chìm trong đống đổ nát, khói thuốc súng như mây mù bao trùm lên Thành cổ”, ông Hòa hồi tưởng.

Khi hành quân đến động Ông Do (bờ nam sông Thạch Hãn), Tiểu đoàn của ông được điều động bổ sung cho các đơn vị của Sư đoàn 308. Ông ở lại đây một tuần để học cách sử dụng vũ khí mới như súng 12 ly 7, B41, cối 60, cối 82.

Bới đất tìm thi hài liệt sỹ trong đêm

Đầu tháng 9, khi cuộc chiến tại thành cổ Quảng Trị diễn ra khốc liệt, ông Hòa được bổ sung vào Tiểu đoàn 19, Sư đoàn 308, đóng tại chân dốc Chu Nga, làm nhiệm vụ vận chuyển cối 82 và DKZ vào khu vực vòng ngoài Thành cổ.

Sau đó, ông được điều lên làm liên lạc cho Đại đội 1, nhận nhiệm vụ đi bảo vệ đoàn thương binh nặng từ bãi tập kết Như Lệ (gần phía tây Thành cổ) ra Viện 16, bên kia chân dốc Chu Nga.

Sau khi đưa đoàn thương binh đến Viện 16, ngày 15/9/1972, ông Hòa được chuyển về Đại đội 9, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 88, Sư đoàn 308, tiếp tục làm nhiệm vụ chốt giữ bãi tập kết Như Lệ, nơi trú ẩn của thương binh, cất giữ đạn dược, vũ khí của quân ta. Đây cũng là thời điểm quân địch tiếp tục bắn phá ác liệt khiến quân ta bị tổn thất nặng nề.

“Đầu giờ chiều hôm đó, máy bay địch thả bom xuống bãi Như Lệ. Đến 16h, chúng tôi nhận được tin nghĩa trang liệt sỹ trong bãi tập kết Như Lệ bị quân địch thả bom trúng. Sau đó, tôi và đồng đội nhận nhiệm vụ tìm lại 3 thi hài liệt sỹ ở nghĩa trang bị vùi lấp.

Khi chạy đến nghĩa trang thì thấy hố bom sâu hoắm. Đêm đó, các chiến sĩ Đại đội 9 tỏa đi đào bới, tìm kiếm. Sau gần 1 tiếng thì tìm được 3 thi thể, nhưng không còn nguyên vẹn”, ông Hòa nhớ lại.

Theo cựu binh Thành cổ Quảng Trị, khi chuẩn bị chôn cất các liệt sỹ, đơn vị nhận lệnh từ cấp trên: “Người phải có đầu, tìm cho bằng được để chôn cất đàng hoàng, làm lại nghi lễ như ban đầu”.

“Anh em chúng tôi tìm cách hố bom khoảng 30m thì phát hiện phần đầu, rồi tổ chức làm nghi lễ mai táng trang nghiêm. Khi chôn, có 2 đồng chí còn sót lại 2 lọ penicillin trong áo”, ông Hòa nói.

Sau 81 ngày đêm “đỏ lửa”, ngày 16/9/1972, cả Thành cổ chỉ còn lại đống hoang tàn đổ nát, quân địch bắt đầu tìm các mũi tiến ra phía ngoài thành để mở rộng địa bàn. Đại đội 9 của ông Hòa lúc này được lệnh chốt giữ tại bãi tập kết Như Lệ (phía ngoài Thành cổ), chặn các mũi tiến ra của địch.

“Đến ngày 4/10/1972, nhiều chiến sĩ hy sinh, quân số đại đội chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, không còn đủ biên chế trung đội, mỗi tiểu đội chỉ còn 2-3 người, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Thượng sỹ Nguyễn Xuân Bừa. Chúng tôi tiếp tục nhận nhiệm vụ ở lại chiến đấu theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Mặt trận B5, làm nhiệm vụ chặn đánh các mũi tiến ra của địch.

Mục tiêu khi đó là giữ chân địch để lực lượng chủ lực của Sư đoàn 308 từng bước rút ra ngoài củng cố lực lượng, trở thành “quả đấm thép” của Bộ Quốc phòng”, ông Hòa kể.

Cuộc giải cứu đồng đội bị địch thiêu sống

Sau khi bộ phim Mưa đỏ được công chiếu, ông Hòa đã xem và như quay ngược lại thời kỳ oanh liệt ở Thành cổ Quảng Trị. Theo ông, cốt truyện của bộ phim đã lột tả một cách chân thực, giống như những gì mà ông và đồng đội đã trải qua cách đây 53 năm về trước.

“Khi xem đến cảnh các chiến sĩ của ta bị quân địch thiêu sống, tôi đã ứa nước mắt. Khoảnh khắc đó giống hệt như những gì tôi từng trải qua ở chiến trường năm ấy. Từng cảnh quay trong phim rất chân thực, khiến tôi không kìm được nước mắt. Tôi vừa xem vừa hồi tưởng lại ngày ấy, cái ngày mà tôi cùng đồng đội chia nhau từng ngụm nước múc ở hố bom”, ông Hòa tâm sự.

Ông Hòa nhớ lại, từ ngày 17/9/1972 đến 7/10/1972, ông cùng các chiến sĩ Đại đội 9 chốt giữ khu vực Như Lệ, liên tục giao chiến với quân địch. Sau đó, ông cùng đồng đội Chu Hữu Minh tiếp tục được điều động di chuyển đến chốt tiền tiêu ở Tích Tường – Cổ Bầu (phía tây Thành cổ) để chốt giữ, chặn lối tiến ra quan trọng của quân địch.

​Người cựu binh cho biết trong suốt những năm tháng chiến đấu ở chiến trường, nỗi ám ảnh lớn nhất trong cuộc đời người lính của ông chính là cuộc giải cứu đồng đội bất thành tại Tích Tường – Cổ Bầu.

​Ông kể, sớm ngày 10/10/1972, ông Hòa đang ở chốt tiền tiêu cùng đồng đội Chu Hữu Minh thì nhận được tin từ chỉ huy về việc địch chuẩn bị thiêu sống 2 chiến sĩ thuộc Sư đoàn 304 của ta. ​Suốt buổi sáng hôm đó, 2 ông trinh sát, tìm cách giải cứu.

Đến 15h cùng ngày, từ chốt tiền tiêu nhìn sang khu nhà đốt cách đó khoảng 50m, ông thấy 2 chiến sĩ của ta đang bị địch đánh đập dã man.

​Ông Hòa cùng đồng chí Minh bàn phương án giải cứu. Ông giao khẩu trung liên cho đồng đội để kìm chân địch ở 2 hầm phía phải nhà đốt, còn mình sẽ dùng lựu đạn và AK để tiêu diệt 3 hầm phía trái, mở đường cứu người.

​Sau khi lên kế hoạch, ông Hòa mang súng AK và lựu đạn lao thẳng ra trận. Khi chỉ còn cách khu nhà đốt vài mét, đồng chí Minh hô lớn: “Không được đâu, Hòa ơi!”. Ông quay sang và thấy một tên địch lom khom ngay trước nhà đốt, phía dưới là 3 quả mìn đã được cài bẫy.

​“Bẫy mìn rải khắp nơi khiến tôi buộc phải quay lại. Lúc đó đã chậm mất rồi, thời cơ đã vụt qua…”, ông nghẹn lời.

​Chỉ khoảng 30 phút sau đó, khi chưa kịp tiếp cận, ông thấy địch hất xăng lên người 2 chiến sĩ. Chúng lấy bùi nhùi tẩm xăng rồi châm lửa.

​“Chúng châm 3 lần mới cháy. Lúc đó, tôi vác khẩu B41, định rằng nếu địch châm lửa thì sẽ bắn để tiêu diệt toàn bộ. Nhưng nhìn thấy đồng đội đang bị treo lơ lửng nên không nỡ. Chỉ trong chốc lát nghe tiếng “bụp”, ngọn lửa đã bao trùm toàn thân 2 chiến sĩ.

Ngọn lửa bùng lên cao, cháy rực, tạo thành làn khói đen nghi ngút ven bờ sông Thạch Hãn. Chứng kiến cảnh tượng đó, tôi đau lòng, ân hận vì không kịp cứu đồng đội”, ông Hòa không giấu được nỗi buồn chia sẻ.

​Đêm 11/10/1972, ông nhận nhiệm vụ yểm trợ, dẫn đường cho lực lượng Sư đoàn 304 ra khu nhà đốt. Ngay trước họng súng của quân địch, họ đã hoàn thành nhiệm vụ đưa thi thể hai chiến sĩ bị thiêu cháy về chôn cất.

Chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị đến ngày 21/10/1972, ông Hòa bị thương được đưa đi Viện 16 điều trị. Sau đó ông hành quân ra Quảng Bình tiếp tục điều trị.

Đến năm 1973, ông học Trường Sỹ quan lục quân 1 ở Sơn Tây. Năm 1977, ông học thêm lớp huấn luyện viên bóng đá, sau đó công tác tại Quân đoàn 4, làm Trưởng ban thể dục thể thao và lập gia đình.

Đến năm 1982, máu đam mê bóng đá một lần nữa lại trỗi dậy, ông xin phục viên về địa phương với ý tưởng thành lập câu lạc bộ bóng đá. Nhưng vì không có kinh phí nên ý tưởng với niềm đam mê bóng đá của ông đành khép lại. Sau đó, ông trở về cùng gia đình làm nông.

Ông Hòa tâm sự, suốt hơn nửa thế kỷ qua, ký ức kinh hoàng về hình ảnh 2 chiến sĩ của ta bị quân địch thiêu sống vẫn còn hiện hữu, khiến ông ám ảnh. Nhiều khi màn đêm buông xuống, hình ảnh ngọn lửa bùng lên lại hiện về, khiến tâm can người lính già day dứt khôn nguôi.

Ông Lê Kim Thảo, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Hợp Thành cũ, cho biết ông Hà Xuân Hòa là cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị. Trước khi sáp nhập với xã Hợp Tiến, toàn xã Hợp Thành có hơn 400 hội viên hội cựu chiến binh. Sau sáp nhập, Hội Cựu chiến binh xã Hợp Tiến có gần 2.000 hội viên.

Theo ông Thảo, sau khi phục viên, ông Hòa về địa phương làm nông và là hội viên Hội Cựu chiến binh xã Hợp Thành. Ông Hòa hoạt động tích cực trong các phong trào ở thôn, xã.

“Ông còn có nhiều năm là Chi hội trưởng Hội Nông dân thôn Diễn Thành, xã Hợp Thành”, ông Thảo chia sẻ.

LEAVE A RESPONSE

Your email address will not be published. Required fields are marked *